TIỂU SỬ TÓM TẮT ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG,
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA,
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ, CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
( TỪ 9-1955 ĐẾN 6/1987)
Phạm Văn Đồng bí danh là Tô, sinh ngày 01/3/1906 tại làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; là nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn của Việt Nam.
Những năm 1925- 1926, khi đang học tại Hà Nội, ông tham gia phong trào học sinh đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (1925) và để tang cụ Phan Chu Trinh (1926). Sau đó, ông đi Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1926).
Cuối năm 1927, ông về nước, tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, đến đầu năm 1929, được cử vào Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ. Tháng 5/1929, ông đi Hồng Kông (Trung Quốc) dự đại hội của tổ chức này và được bầu vào Tổng bộ và Ban trù bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 7/1929, Phạm Văn Đồng trở về Sài Gòn hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tháng 7/1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho Phạm Văn Đồng nhưng lại đưa ông về quê quản thúc. Trở về Quảng Ngãi một thời gian, ông bí mật liên lạc với tổ chức Đảng ở Quảng Ngãi, tiếp tục hoạt động cách mạng, sau đó ra Hà Nội tham gia hoạt động công khai.
Tháng 5/1940, Phạm Văn Đồng đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, ông được cử đi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Đầu năm 1942, ông được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945, Phạm Văn Đồng dự Đại hội Quốc dân Tân Trào và được vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 5/1946, ông đảm nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán với Chính phủ Cộng hoà Pháp tại Hội nghị Fôngtenơblô (Fontainnebleau).
Trước ngày kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Phạm Văn Đồng được cử vào Quảng Ngãi làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung bộ, trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở đây. Đầu năm 1949, ông được điều về chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Tháng 5/1954, ông là Trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ (Genève) về Đông Dương. Từ tháng 9/1954, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại của Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I (1946- 1960) đến khoá VII (1981- 1987). Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1986 (31 năm), ông liên tục giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ (có lúc gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Trong nhiều năm ông đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng chi viện cho tiền tuyến.
Năm 1947 ông được bầu bổ sung ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, năm 1949 chuyển thành ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951), lần thứ III (9/1960), lần thứ IV (12/1976), lần thứ V (3/1982), Phạm Văn Đồng đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII (6/1996), ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương; đến tháng 12/1997 được kết thúc nhiệm vụ theo yêu cầu của ông.
Phạm Văn Đồng qua đời tại Hà Nội ngày 29/4/2000
còn đây là những sự kiện chính của Thủ tướng chính phủ PVD
Ngày 16-4-1946, ông tham gia phái đoàn thân thiện của Quốc hội và là Trưởng đoàn đi thăm nước Pháp.
Cuối tháng 5-1946, ông làm Trưởng phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Phôngtennơblô (Pháp).
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm đặc phái viên của Chính phủ và Đảng tại miền Nam Trung Bộ.
Từ tháng 8-1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ tháng 5-1954, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi dự Hội nghị Giơnevơ bàn về Đông Dương.
Tháng 9-1955, ông được cử làm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ năm 1960 đến năm 1981, ông được bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rồi Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ năm 1981 đến 1987 ông là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ông là đại biểu Quốc hội các khoá từ khoá I đến khóa VII.
Năm 1947, ông là ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng và năm 1949 ông là ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng lần thứ II (1951) ông được bầu là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ủy viên Bộ Chính trị. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), lần thứ IV (1976) lần thứ V (1982) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ủy viên Bộ Chính trị.
Từ năm 1987 đến 1997, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
anh em cố gắn mà hoc đi tiểu sử của trường ta đó hjhj
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA,
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ, CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
( TỪ 9-1955 ĐẾN 6/1987)
Phạm Văn Đồng bí danh là Tô, sinh ngày 01/3/1906 tại làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; là nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn của Việt Nam.
Những năm 1925- 1926, khi đang học tại Hà Nội, ông tham gia phong trào học sinh đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (1925) và để tang cụ Phan Chu Trinh (1926). Sau đó, ông đi Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1926).
Cuối năm 1927, ông về nước, tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, đến đầu năm 1929, được cử vào Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ. Tháng 5/1929, ông đi Hồng Kông (Trung Quốc) dự đại hội của tổ chức này và được bầu vào Tổng bộ và Ban trù bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 7/1929, Phạm Văn Đồng trở về Sài Gòn hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tháng 7/1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho Phạm Văn Đồng nhưng lại đưa ông về quê quản thúc. Trở về Quảng Ngãi một thời gian, ông bí mật liên lạc với tổ chức Đảng ở Quảng Ngãi, tiếp tục hoạt động cách mạng, sau đó ra Hà Nội tham gia hoạt động công khai.
Tháng 5/1940, Phạm Văn Đồng đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, ông được cử đi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Đầu năm 1942, ông được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945, Phạm Văn Đồng dự Đại hội Quốc dân Tân Trào và được vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 5/1946, ông đảm nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán với Chính phủ Cộng hoà Pháp tại Hội nghị Fôngtenơblô (Fontainnebleau).
Trước ngày kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Phạm Văn Đồng được cử vào Quảng Ngãi làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung bộ, trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở đây. Đầu năm 1949, ông được điều về chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Tháng 5/1954, ông là Trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ (Genève) về Đông Dương. Từ tháng 9/1954, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại của Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I (1946- 1960) đến khoá VII (1981- 1987). Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1986 (31 năm), ông liên tục giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ (có lúc gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Trong nhiều năm ông đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng chi viện cho tiền tuyến.
Năm 1947 ông được bầu bổ sung ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, năm 1949 chuyển thành ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951), lần thứ III (9/1960), lần thứ IV (12/1976), lần thứ V (3/1982), Phạm Văn Đồng đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII (6/1996), ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương; đến tháng 12/1997 được kết thúc nhiệm vụ theo yêu cầu của ông.
Phạm Văn Đồng qua đời tại Hà Nội ngày 29/4/2000
còn đây là những sự kiện chính của Thủ tướng chính phủ PVD
Ngày 16-4-1946, ông tham gia phái đoàn thân thiện của Quốc hội và là Trưởng đoàn đi thăm nước Pháp.
Cuối tháng 5-1946, ông làm Trưởng phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Phôngtennơblô (Pháp).
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm đặc phái viên của Chính phủ và Đảng tại miền Nam Trung Bộ.
Từ tháng 8-1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ tháng 5-1954, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi dự Hội nghị Giơnevơ bàn về Đông Dương.
Tháng 9-1955, ông được cử làm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ năm 1960 đến năm 1981, ông được bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rồi Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ năm 1981 đến 1987 ông là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ông là đại biểu Quốc hội các khoá từ khoá I đến khóa VII.
Năm 1947, ông là ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng và năm 1949 ông là ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng lần thứ II (1951) ông được bầu là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ủy viên Bộ Chính trị. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), lần thứ IV (1976) lần thứ V (1982) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ủy viên Bộ Chính trị.
Từ năm 1987 đến 1997, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
anh em cố gắn mà hoc đi tiểu sử của trường ta đó hjhj